Lốp không săm có những ưu nhược điểm gì?
Lốp không săm là loại lốp có thể tự giữ không khí bên trong mà không cần tới săm riêng. Bên trong lốp được tráng thêm một lớp màng halobutyl hay chlorobutyl để giữ không khí cùng với mối nối giữa lốp và vành bánh xe, ngăn không cho không khí thẩm thấu ra ngoài.
Lốp không săm có ưu điểm là an toàn hơn lốp có săm. Với lốp có săm, khi xe chạy ở tốc độ cao, nhiệt độ của lốp xe sẽ tăng lên nhanh chóng, qua đó làm tăng áp suất trong săm nên lốp truyền thống thường dễ bị tổn thương trong điều kiện này. Và nếu có bất cứ vật gì xuyên quan lốp khi đó, do nhiệt độ cao, săm có thể nổ giống như một quả bong bóng. Do săm chỉ có khả năng giữ hơi, không khí thoát ra ngoài nhanh sẽ tạo ra áp lực lớn khiến cho lốp có thể bị rách. Tình trạng này có thể làm cho xe mất lái, và ở tốc độ cao nhiều khả năng sẽ gây ra tai nạn chết người.
Lốp không săm có khả năng giữ không khí tốt hơn. Trong trường hợp bị một vật đâm xuyên qua lốp, không khí sẽ chỉ thoát ra qua lỗ thủng ở lốp vốn đã bị bít bởi chính vật đó. Vì thế, độ an toàn của lốp không săm cao hơn. Do lốp không săm tự giữ không khí, nó cũng có khả năng tản nhiệt tốt hơn, đặc biệt là khi lắp với vành kim loại. Một vấn đề nữa với săm là khi bị thủng chúng thường tạo ra các lỗ nhỏ trong khi ở lốp không săm có những trường hợp đinh hay vật nhọn đâm xuyên qua trong vài ngày mà lốp vẫn không bị mất hơi nhiều.
Trung bình, lốp không săm nhẹ hơn lốp có săm khoảng 500g, và điều này giúp ôtô tiết kiệm nhiên liệu hơn, hay cải thiện cảm giác lái cùng những tính năng động lực. Lốp không săm còn có lợi cho những tay lái mạo hiểm khi họ có thể lái dễ dàng trên đường gồ ghề với áp suất lốp thấp mà không sợ bị dập săm. Lốp không săm cũng có thể sửa lại nhanh chóng nhờ một hợp chất bịt lỗ thủng. Tuy nhiên, giá thành của nó thường đắt hơn lốp có săm.
Lốp run-flat có thực sự hiệu quả?
Lốp có thể sử dụng khi hết hơi (run-flat) có nguồn gốc từ năm 1892, khi bằng sáng chế đầu tiên được chính thức công bố. Nhà sản xuất lốp đầu tiên chế tạo run-flat là Goodyear vào năm 1978. Nhìn chung khi hết hơi, kể cả lốp run-flat cũng chỉ được phép sử dụng trong một quãng đường nhất định, dù điều này phụ thuộc vào nhà sản xuất. Ví dụ, một số lốp thiết kế đặc biệt để có thể chạy được 160km, một số lốp khác lại có thể chạy được 320km. Tuy nhiên, khi “hệ thống” run-flat được phát huy, người điều khiển phải giảm tốc độ xe xuống dưới 90km/giờ.
Có nhiều quan điểm trái chiều về lốp run-flat. Một số người cho rằng, nó có ích vì đảm bảo an toàn cho ôtô trong nhiều giờ sau khi lốp hết hơi, trong khi những người khác lại coi đây là sự lãng phí về thời gian và tiền bạc. Nhược điểm khác của lốp run-flat là trọng lượng nặng hơn nên nó làm hạn chế tốc độ, tăng mức tiêu thụ nhiên liệu và trong một số trường hợp làm giảm tính năng phanh của ôtô. Điều này là đáng lo ngại song nhờ một số cải tiến công nghệ mới, lốp run-flat đang dần giải quyết được những nhược điểm đó. Chi phí cao của lốp run-flat là một nhược điểm khác. Ngoài ra, việc sửa chữa và thay thế khi lốp gặp trục trặc cũng rất tốn kém. Thông thường, lốp run-flat được lắp cho những chiếc xe bọc thép chở nguyên thủ quốc gia để đề phòng trường hợp bị tấn công.
Lốp có thể tự bơm hơi như thế nào?
Lốp tự bơm (SIT - Self Inflating Tire) là công nghệ do công ty Coda Development của CH Séc thiết kế chế tạo và đã giành được giải “Công nghệ lốp xe của năm” tại triển lãm “Tire Technology Awards for Innovation and Excellence” năm 2009 ở Hamburg (Đức).
Ưu điểm của công nghệ này là có thể dễ dàng liên tục duy trì áp suât lốp ở mức tối ưu, giúp tiết kiệm nhiên liệu, kéo dài tuổi thọ lốp và hạn chế nguy cơ xảy ra tai nạn. Coda Development tính rằng, ôtô chỉ cần chạy 1,6 km với hệ thống này có thể bơm vào lượng không khí tương đương với số khí bị thất thoát ra ngoài trong nhiều tháng (trung bình khoảng từ 1-3% mỗi tháng). Công ty này cũng cho biết, việc duy trì áp suất lốp đầy đủ có thể tiết kiệm khoảng 1,24 tỷ gallon nhiên liệu mỗi năm (tính riêng ở Mỹ) và kéo dài tuổi thọ cho khoảng 4,5 triệu chiếc lốp.